Cách phân biệt thanh tra thuế và kiểm tra thuế? – Xã hội ngày càng phát triển, thu nhập của người dân ngày một cao. Cùng với đó, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh lần lượt ra đời. Để đảm bảo sự bình ổn của kinh tế cũng như tạo sự công bằng trong xã hội, Nhà nước đã đưa ra những quy định về thuế, chủ thể tham gia đóng thuế và việc giám sát hoạt động thuế tại nước ta. Dưới đây là bài viết về việc phân biệt và so sánh giữa thanh tra thuế và kiểm tra thuế.
Thuế là một khoản thu bắt buộc, không bồi hoàn trực tiếp của Nhà nước đối với các tổ chức và các cá nhân nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước vì lợi ích chung. Thuế giữ vai trò quan trọng trong xã hội hiện tại nếu không có thuế nhà nước sẽ không thể hoạt động vững mạnh.
Phân biệt thanh tra thuế và kiểm tra thuế
Thanh tra thuế và kiểm tra thuế là các hoạt động chính trong việc Nhà nước quản lý thuế. Ngoài nhiệm vụ chung là làm phương tiện để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra quá trình hoạt động thuế, góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của kinh tế đất nước, thì hai hoạt động này còn có những điểm khác biệt nhất định, cụ thể như sau:
Điểm khác nhau giữa thanh tra thuế và kiểm tra thuế:
– Về khái niệm:
+ Kiểm tra thuế là hoạt động thường xuyên mang tính nghiệp vụ của cơ quan quản lý thuế nhằm đánh giá tính đầy đủ, chính xác của các thông tin, chứng từ trong hồ sơ thuế hoặc đánh giá việc tuân thủ pháp luật của người nộp thuế. Về nguyên tắc, nó là hoạt động giám sát của cơ quan thuế đối với các hoạt động, giao dịch liên quan đến phát sinh nghĩa vụ thuế và tình hình thực hiện thủ tục hành chính thuế, chấp hành nghĩa vụ nộp thuế nhằm đảm bảo pháp luật thuế được thực hiện nghiêm chỉnh trong đời sống kinh tế – xã hội.
+ Thanh tra thuế là hoạt động của cơ quan quản lý thuế nhằm đánh giá việc chấp hành pháp luật của người nộp thuế, xác minh và thu thập chứng cứ để xác định hành vi vi phạm pháp luật về thuế dựa trên cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến người nộp. Thực chất, thanh tra thuế là hoạt động thanh tra chuyên ngành, được tiến hành bởi, cơ quan quản lý chuyên ngành Thuế (cơ quan thuế) đối với các tổ chức, cá nhân (người nộp thuế) trong việc thực hiện pháp luật về thuế, xử lý các vi phạm pháp luật thuế nhằm đạt được các mục tiêu của quản lý thuế.

So sánh thanh tra thuế và kiểm tra thuế
– Chủ thể tiến hành: chủ thể tiến hành kiểm tra thuế rộng hơn chủ thể tiến hành thanh tra thuế.
+ Chủ thể kiểm tra thuế bao gồm các cơ quan, bộ phận và công chức quản lý thuế nhà nước. Việc kiểm tra thuế sẽ do cơ quan quản lý trực tiếp việc nộp thuế của cá nhân, tổ chức thực hiện tại cơ quan quản lý thuế hoặc tại trụ sở của người nộp thuế. Thông thường, việc kiểm tra thuế được diễn ra tại trụ sở cơ quan thuế dựa trên hồ sơ kê khai thuế của người nộp thuế. Ngoài ra, việc kiểm tra thuế có thể diễn ra tại trụ sở của người nộp thuế nếu họ không tự giác sửa đổi, bổ sung những nội dung sai sót mà cơ quan thuế đã kiểm tra, phát hiện và yêu cầu.
+ Chủ thể thanh tra thuế bao gồm tổ chức thanh tra chuyên trách của nhà nước trong lĩnh vực thu, chỉ có tổ chức thanh tra mới có quyền thực hiện hoạt động thanh tra.
>>> Xem thêm: Quy trình kiểm tra hồ sơ thuế khi Doanh nghiệp bị thanh tra thuế
– Nội dung:
+ Nội dung kiểm tra thuế là những vấn đề trong hiện tại dễ nhận biết thực chất của chúng hơn. Nội dung kiểm tra bao gồm những nội dung cụ thể của kiểm tra trước, trong và sau khi các hoạt động kinh tế – xã hội phát sinh cũng như kiểm tra việc thực hiện các chính sách pháp luật, chế độ pháp lý của nhà nước nhưng chủ yếu là kiểm tra thường xuyên trong quá trình thực hiện kế hoạch kinh tế – xã hội. Vì vậy dễ nhận biết được thực chất của vấn đề mà không đòi hỏi phải có những nghiệp vụ phức tạp để xác minh tài liệu chứng cứ mà vẫn có thể đánh giá đúng đắn và kết luận chính xác.
+ Thanh tra thuế thường là những vấn đề phức tạp bao gồm những hành vi thuộc về quá khứ, hoạt động thanh tra là kiểm tra ở giai đoạn sau khi các hoạt động kinh tế – xã hội phát sinh. Vì thế hoạt động thanh tra phải giải quyết các vấn đề tồn đọng trong quản lý, giải quyết các khiếu nại, tranh chấp với khách thể kiểm tra vi phạm pháp luật.
Nội dung của thanh tra thường là những vấn đề phức tạp, có những vấn đề bề nổi, song rất nhiều vấn đề bị che đậy bởi những bề ngoài khác nhau, dễ gây những nhận định khác nhau và khó nhận biết được bản chất.

Nội dung trong việc thanh tra thuế và kiểm tra thuế
– Nguyên tắc quản lý:
+ Đối với kiểm tra thuế:
Được tiến hành với bất kỳ người nộp thuế nào. Kiểm tra thuế tại trụ sở cơ quan quản lý thuế thực hiện thường xuyên đối với các hồ sơ thuế, kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế thực hiện với các trường hợp: Người nộp thuế không giải trình, khai bổ sung hồ sơ thuế theo yêu cầu của cơ quan quản lý thuế hoặc giải trình, khai bổ sung không đúng, không chứng minh được số thuế phải nộp, số thuế miễn, giảm, hoàn đúng.
Các trường hợp kiểm tra sau thông quan gồm kiểm tra theo kế hoạch, kiểm tra chọn mẫu, kiểm tra đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Kiểm tra đối với các đối tượng kiểm tra theo tiêu chí đánh giá rủi ro về thuế.
+ Đối với thanh tra thuế:
Khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về thuế. Để giải quyết khiếu nại, tố cáo hoạch thực hiện các biện pháp phòng, chống tham nhũng. Theo yêu cầu của công tác quản lý thuế trên cơ sở kết quả phân loại rủi ro trong quản lý thuế. Theo kiến nghị của Kiểm toán nhà nước, kết luận của Thanh tr nhà nước và cơ quan khác có thẩm quyền.
– Về thời hạn tiến hành:
+ Đối với kiểm tra thuế: Thời hạn kiểm tra được xác định trong quyết định kiểm tra nhưng không quá mười ngày làm việc tại trụ sở của người nộp thuế (thời hạn kiểm tra được tính từ ngày công bố quyết định kiểm tra); trường hợp phạm vi kiểm tra lớn, nội dung phức tạp thì người đã quyết định kiểm tra có thể gia hạn một lần nhưng không quá mười ngày làm việc tại trụ sở của người nộp thuế. Lập biên bản kiểm tra thuế trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày hết thời hạn kiểm tra.
+ Đối với thanh tra thuế: Cuộc thanh tra do Thanh tra Chính phủ tiến hành không quá sáu mươi ngày, trường hợp phức tạp thì có thể kéo dài, nhưng không quá chín mươi ngày. Đối với cuộc thanh tra đặc biệt phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều địa phương thì thời hạn thanh tra có thể kéo dài, nhưng không quá 150 ngày.
Cuộc thanh tra do Thanh tra tỉnh, Thanh tra bộ tiến hành không quá 45 ngày, trường hợp phức tạp thì có thể kéo dài, nhưng không quá 70 ngày. Cuộc thanh tra do Thanh tra huyện, Thanh tra sở tiến hành không quá 30 ngày; ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn thanh tra có thể kéo dài, nhưng không quá 45 ngày.

Nguyên tắc, hoạt động thanh tra thuế và kiểm tra thuế
Điểm giống nhau giữa thanh tra thuế và kiểm tra thuế
Dù có những điểm khác biệt, song về nguyên tắc, hoạt động thanh tra thuế và kiểm tra thuế phải tuân thủ theo những quy định chung của Nhà nước và pháp luật. Cụ thể như sau:
– Thứ nhất: thanh tra thuế và kiểm tra thuế được thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến người nộp thuế, đánh giá việc chấp hành pháp luật của người nộp thuế, xác minh và thu thập chứng cứ để xác định hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Tức ở đây, cơ quan chức năng có thẩm quyền phải tiến hành điều tra, phân tích dữ liệu để đưa ra những kết quả, xem xét xem cơ quan, tổ chức, cá nhân có vi phạm việc đóng thuế hay không. Từ đó đưa ra những biện pháp xử lý kịp thời.
– Thứ hai: thanh tra thuế và kiểm tra thuế không cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là người nộp thuế. Thanh tra, kiểm tra thuế là việc giám sát, quản lý hoạt động đóng thuế của các cá nhân, tổ chức. Đây là công việc điều tra, kiểm tra của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Còn doanh nghiệp, cá nhân chỉ cần thực hiện việc đóng thuế, việc kiểm tra đúng sai thuộc thẩm quyền của cơ quan ban ngành. Do đó, việc thanh tra, kiểm tra này không được ảnh hưởng, làm gián đoạn hoạt động làm việc bình thường của các cá nhân, tổ chức.
– Thứ ba: thanh tra thuế và kiểm tra thuế phải tuân thủ quy định của Luật Quản lý thuế và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Thực chất, thanh tra, kiểm tra thuế là hoạt động của Nhà nước nhằm đảm bảo hoạt động đóng thuế của các cá nhân, tổ chức được thực hiện một cách nghiêm chỉnh.
Pháp luật về thuế được xem là căn cứ pháp lý, điều chỉnh hoạt động của các cá nhân, tổ chức liên quan đến lĩnh vực này. Và việc thanh tra, kiểm tra thuế cũng phải tuân thủ pháp luật. Điều này giúp cho quá trình thanh tra thuế và kiểm tra thuế diễn ra một cách khách quan, không xảy ra sai phạm, bảo vệ một cách tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước.